hội thề đông quan diễn ra vào thời gian nào hot nhất hiện nay được quan tâm nhiều nhất, đừng quên chia sẻ kiến thức rất hay qua bài viết này nhé!
Khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427) là cuộc khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh xâm lược do Lê Lợi lãnh đạo và kết thúc bằng việc giành lại độc lập cho nước Đại Việt và thành lập nhà Hậu Lê.<?xml:namespace prefix = o ns = “urn:schemas-microsoft-com:office:office” />
Khởi nghĩa Lam Sơn gồm ba giai đoạn lớn: hoạt động ở vùng núi Thanh Hóa (1418-1423), tiến vào phía nam (1424-1425) và giải phóng Đông Quan (1426-1427).
Khởi nghĩa Lam Sơn nổ ra trong bối cảnh rất khó khăn. Nhiều cuộc nổi dậy chống Minh, điển hình là nhà Hậu Trần, đã bị dẹp một cách tàn khốc. Liên tiếp hai vua nhà Hồ, một vua nhà Hậu Trần bị bắt về Bắc, vua Trùng Quang và các tướng đều tử tiết. Trương Phụ tàn sát những người lính theo quân khởi nghĩa và cả dân thường rất tàn bạo (chặt đầu, đốt xác…) để khủng bố tinh thần người Việt. Mặt khác, các tướng nhà Minh như Hoàng Phúc, Trương Phụ đã thiết lập bộ máy cai trị và huy động được một lực lượng người Việt giúp việc khá đắc lực như Mạc Thúy, Lương Nhữ Hốt, Trần Phong… Tinh thần chống đối của người Việt lúc đó đã lắng xuống khá nhiều so với thời nhà Hồ mới mất. Một lớp nhân tài nổi lên chống đối trước đây đã bị tiêu diệt hoặc vô hiệu hoá. Một số cuộc khởi nghĩa chống Minh vẫn hoạt động nhưng lẻ tẻ và không có khả năng mở rộng.
Trong bối cảnh đó, Lê Lợi đã đứng lên khởi nghĩa ở Lam Sơn, đúng như Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô đại cáo:
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên/ Chính lúc quân thù đang mạnh…/ Tuấn kiệt như sao buổi sớm/ Nhân tài như lá mùa thu.
HOẠT ĐỘNG Ở VÙNG NÚI THANH HÓA
Mùa xuân năm Mậu Tuất 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt, đồng chí hướng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Sát, Lưu Nhân Chú… tất cả 19 tướng văn và tướng võ chính thức phất cờ khởi nghĩa Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, kêu gọi dân Việt đồng lòng đứng lên đánh quân xâm lược nhà Minh cứu nước.
Thời kỳ hoạt động ở vùng núi Thanh Hóa là giai đoạn khó khăn nhất của cuộc khởi nghĩa. Trong thời gian đầu, lực lượng của quân Lam Sơn chỉ có vài ngàn người, lương thực thiếu thốn, thường chỉ thắng được vài trận nhỏ và hay bị quân Minh đánh bại.
Bị quân Minh vây đánh nhiều trận, quân Lam Sơn khốn đốn ba lần phải rút chạy lên núi Chí Linh những năm 1418, 1419, 1422 và một lần cố thủ ở Sách Khôi năm 1422. Một lần bị địch vây gắt ở núi Chí Linh (có sách ghi năm 1418, có sách ghi năm 1419), quân sĩ hết lương, người em họ Lê Lợi là Lê Lai theo gương Kỷ Tín nhà Tây Hán phải đóng giả làm Lê Lợi, dẫn quân ra ngoài nhử quân Minh. Quân Minh tưởng là bắt được chúa Lam Sơn nên lơi lỏng phòng bị, Lê Lợi và các tướng lĩnh thừa cơ mở đường khác chạy thoát. Lê Lai bị địch giải về Đông Quan và bị giết.
Ngoài quân Minh, Lê Lợi và quân Lam Sơn còn phải đối phó với một bộ phận các tù trưởng miền núi tại địa phương theo nhà Minh và quân nước Ai Lao (Lào) bị xúi giục hùa theo. Dù gặp nhiều khó khăn, quân Lam Sơn mấy lần đánh bại quân Ai Lao có lực lượng đông hơn. Tuy nhiên do lực lượng chưa đủ mạnh nên Lê Lợi thường cùng quân Lam Sơn phải ẩn náu trong rừng núi, nhiều lần phải ăn rau củ và măng tre lâu ngày; có lần ông phải giết cả voi và ngựa chiến của mình để cho tướng sĩ ăn.
Trước tình thế hiểm nghèo, Lê Lợi phải xin giảng hòa với quân Minh năm 1422. Đến năm 1423, khi thực lực được củng cố, lại thấy quân Minh bắt giữ sứ giả, Lê Lợi liền tuyệt giao cắt đứt giảng hòa.
TIẾN VÀO <?xml:namespace prefix = st1 ns = “urn:schemas-microsoft-com:office:smarttags” />NAM
Theo kế của Nguyễn Chích, năm 1424 Lê Lợi quyết định đưa quân vào đồng bằng Nghệ An. Tiến vào Nghệ An là một bước ngoặt về chiến thuật trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Trên đường đi, quân Lam Sơn hạ thành Đa Căng, đánh lui quân cứu viện của viên tù trưởng địa phương theo quân Minh là Cầm Bành. Sau đó quân Lam Sơn đánh thành Trà Long. Tướng Minh là Trần Trí mang quân từ Nghệ An tới cứu Cầm Bành, bị quân Lam Sơn đánh lui. Lê Lợi vây Cầm Bành, Trí đóng ngoài xa không dám cứu. Bị vây ngặt lâu ngày, Bành phải đầu hàng.
Lê Lợi sai Đinh Liệt mang quân vào đánh Nghệ An, lại mang quân chủ lực cùng tiến vào, Trần Trí bị thua liền mấy trận phải rút vào thành cố thủ.
Lý An, Phương Chính từ Đông Quan vào cứu Trần Trí ở Nghệ An, Trí cũng mang quân ra ngoài đánh. Lê Lợi dùng kế nhử địch đến sông Độ Gia phá tan. Trần Trí chạy về Đông Quan, còn An và Chính lại chạy vào thành Nghệ An.
Tháng 5/1425, Lê Lợi lại sai Đinh Lễ đem quân ra đánh Diễn Châu, quân Minh thua chạy về Tây Đô (Thanh Hóa). Sau đó ông lại điều Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Triện tiếp ứng cho Đinh Lễ đánh ra Tây Đô, quân Minh bị thua phải rút vào cố thủ trong thành.
Lê Lợi một mặt siết vòng vây quanh thành Nghệ An và Tây Đô, mặt khác sai Trần Nguyên Hãn, Doãn Nỗ, Lê Đa Bồ đem quân vào Nam đánh Tân Bình, Thuận Hóa. Tướng Minh là Nhậm Năng ra đánh bị phá tan. Sau Lê Lợi lại sai Lê Ngân, Lê Văn An mang thủy quân tiếp ứng cho Trần Nguyên Hãn chiếm đất Tân Bình, Thuận Hóa. Quân Minh phải rút vào cố thủ nốt. Như vậy đến cuối năm 1425, Lê Lợi làm chủ toàn bộ đất đai từ Thanh Hóa trở vào, các thành địch đều bị bao vây.
GIẢI PHÓNG ĐÔNG QUAN
Chiến thắng Tốt Động, Chúc Động
Tháng 8/1426, Lê Lợi chia quân cho các tướng làm 3 cánh Bắc tiến. Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Lê Triện ra phía tây bắc, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị ra phía đông bắc; Đinh Lễ, Nguyễn Xí ra đánh Đông Quan.
Lê Triện tiến đến gần Đông Quan gặp Trần Trí kéo ra, liền đánh bại Trí. Nghe tin viện binh nhà Minh ở Vân Nam sắp sang, Triện chia quân cho Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả ra chặn quân Vân Nam, còn Triện và Đỗ Bí hợp với quân Đinh Lễ, Nguyễn Xí đánh Đông Quan.
Quân Vân Nam do Vương An Lão chỉ huy kéo sang. Phạm Văn Xảo phá tan viện binh Vân Nam. An Lão chạy về cố thủ ở thành Tam Giang. Trần Trí thấy mất viện binh bèn cầu viện Lý An ở Nghệ An. Lý An và Phương Chính để Thái Phúc ở lại giữ thành Nghệ An, mang quân vượt biển ra cứu Đông Quan. Quân Lam Sơn định đón đường ngăn chặn nhưng không được. Lê Lợi liền giao cho Lê Văn An, Lê Văn Linh vây thành, còn mình kéo đại quân ra bắc.
Vua Minh sai Vương Thông, Mã Anh mang quân sang tiếp viện. Thông hợp với quân ở Đông Quan được 10 vạn, chia cho Phương Chính, Mã Kỳ. Lê Triện, Đỗ Bí đánh bại Mã Kỳ ở Từ Liêm, lại đánh luôn cánh quân của Chính. Cả hai tướng thua chạy, về nhập với quân Vương Thông ở Cổ Sở. Lê Triện lại tiến đánh Vương Thông, nhưng Thông đã phòng bị, Triện bị thua phải rút về Cao Bộ, sai người cầu cứu Nguyễn Xí.
Đinh Lễ, Nguyễn Xí đem quân đến đặt phục binh ở Tốt Động, Chúc Động. Nhân biết Vương Thông định chia đường đánh úp Lê Triện, hai tướng bèn tương kế tựu kế dụ Thông vào ổ mai phục Tốt Động. Quân Vương Thông thua to, Trần Hiệp, Lý Lượng và 5 vạn quân bị giết, 1 vạn quân bị bắt sống. Thông cùng các tướng chạy về cố thủ ở Đông Quan.
Sử chép ba đạo quân ra Bắc của Lê Lợi chỉ có tổng số 9000 người. Các nhà nghiên cứu cho rằng con số đó chưa chính xác vì các trận đánh của ba đạo quân này đều có quy mô khá lớn và lực lượng quân Minh sang nhập vào khá đông, do đó để giành thắng lợi, 3 cánh quân (sau đó lại chia thành 4) chắc phải đông hơn. Với một vài ngàn người khó đương nổi lực lượng đông và mạnh của quân Minh như vậy. Căn cứ sách Đại Việt thông sử, khi quân Minh sắp rút về, Lê Lợi đã bàn với các tướng, đại ý rằng: quân Lam Sơn hiện có tổng số 25 vạn, ông dự định sẽ cho 15 vạn về làm ruộng và tuyển lấy 10 vạn làm quân thường trực của triều đình. Qua đó thì thấy những cánh quân ra Bắc phải có một vài vạn mỗi cánh quân.
Lê Lợi được tin thắng trận liền sai Trần Nguyên Hãn, Bùi Bị chia hai đường thủy bộ tiến ra gần Đông Quan.
Lập Trần Cảo
Vương Thông thua chạy không dám ra đánh, viện cớ tìm lại tờ chiếu của vua Minh Thành Tổ năm 1407 khi đánh nhà Hồ, có nội dung muốn lập lại con cháu nhà Trần (vì nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần nên Minh Thành Tổ lấy danh nghĩa lập lại nhà Trần để mang quân sang đánh nhà Hồ, nay Vương Thông muốn vin vào đó) ra điều kiện với Lê Lợi rằng Thông sẽ rút về nếu Lê Lợi lập con cháu nhà Trần làm vua.
Lê Lợi vì đại cuộc, muốn quân Minh nhanh chóng rút về nên đồng ý. Ông sai người tìm được Trần Cảo bèn lập làm vua, còn ông tự xưng là Vệ quốc công. Theo sử sách, Trần Cảo tên thật là Hồ Ông, tự xưng là cháu nội vua Trần Nghệ Tông, được tù trưởng châu Ngọc Ma tiến cử với Lê Lợi. Nhưng theo một số sử gia gần đây, việc Trần Cảo mạo xưng hay thật sự là con cháu nhà Trần rất khó xác định, có thể chữ “mạo xưng” mà sử sách ghi là do các sử gia nhà Lê chép vào để giảm uy tín của Cảo.
Vương Thông ngoài mặt giảng hòa nhưng lại sai quân đào hào cắm chông phòng thủ và mật sai người về xin cứu viện. Lê Lợi biết chuyện liền cắt đứt giảng hòa.
Vây thành Đông Quan
Sau khi cắt đứt giảng hòa, Lê Lợi sai các tướng đi đánh chiếm các thành ở Bắc bộ như Điêu Diêu (Thị Cầu, Bắc Ninh), Tam Giang (Tam Đái, Phú Thọ), Xương Giang (phủ Lạng Thương), Kỳ Ôn, không lâu sau đều hạ được.
Đầu năm 1427, ông chia quân tiến qua sông Nhị Hà, đóng dinh ở Bồ Đề, sai các tướng đánh thành Đông Quan. Ông đặt kỷ luật quân đội rất nghiêm để yên lòng nhân dân. Do đó quân Lam Sơn đi đến các nơi rất được lòng dân.
Tướng Minh là Thái Phúc nộp thành Nghệ An xin hàng. Lê Lợi sai Thượng thư bộ Lại là Nguyễn Trãi viết thư dụ địch ở các thành khác ra hàng.
Nhân lúc quân Lam Sơn vây thành có vẻ lơi lỏng, quân Minh ở Đông Quan ra đánh úp. Lê Triện tử trận ở Từ Liêm, Đinh Lễ và Nguyễn Xí bị bắt ở Thanh Trì. Sau Đinh Lễ bị giết, Nguyễn Xí trốn thoát được.
CHIẾN THẮNG CHI LĂNG-XƯƠNG GIANG
Cuối năm 1427, vua Minh Tuyên Tông điều viện binh cứu Vương Thông, sai Liễu Thăng mang 10 vạn quân tiến sang từ Quảng Tây; Mộc Thạnh mang 5 vạn quân từ Vân Nam kéo sang. Đây là hai tướng đã từng sang đánh Việt Nam thời nhà Hồ và nhà Hậu Trần. Theo các nhà nghiên cứu, con số 15 vạn của cả hai đạo quân có thể là nói thăng lên, trên thực tế nếu cộng số các đạo quân điều động từ các nơi thì tổng số chỉ có khoảng gần 12 vạn quân và cánh quân chủ lực là của Liễu Thăng.
Nghe tin có viện binh, nhiều tướng muốn đánh để hạ gấp thành Đông Quan. Tuy nhiên, theo ý kiến của Nguyễn Trãi, Lê Lợi cho rằng đánh thành là hạ sách vì quân trong thành đông, chưa thể lấy ngay được, nếu bị viện binh đánh kẹp vào thì nguy; do đó ông quyết định điều quân lên chặn đánh viện binh trước để nản lòng địch ở Đông Quan.
Đầu tiên, ông ra lệnh dời người ở những vùng địch đi qua như Lạng Giang, Bắc Giang, Quy Hóa, Tuyên Quang, để đồng không để cô lập địch. Biết cánh Liễu Thăng là quân chủ lực, ông sai Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Văn Linh, Đinh Liệt mang quân phục ở Chi Lăng, lại sai Lê Văn An, Lê Lý mang quân tiếp ứng. Đối với cánh quân Mộc Thạnh, ông biết Thạnh là viên tướng lão luyện, sẽ ngồi chờ thắng bại của Liễu Thăng mới hành động nên hạ lệnh cho Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả cố thủ không đánh.
Tướng trấn giữ biên giới là Trần Lựu liên tục giả cách thua chạy từ Ải Nam Quan về Ải Lưu rồi lại lui về Chi Lăng. Ngày 18/9 âm lịch, Thăng đuổi đến Chi Lăng. Trần Lựu lại thua, Thăng đắc thắng mang 100 quân kị đi trước. Ngày 20, Thăng bị phục binh của Lê Sát, Trần Lựu đổ ra chém chết.
Các tướng thừa dịp xông lên đánh địch, giết hơn 1 vạn quân, chém được Lương Minh, Lý Khánh tự vẫn. Tướng Minh còn lại Hoàng Phúc, Thôi Tụ cố kéo về thành Xương Giang thế thủ nhưng đến nơi mới biết thành đã bị quân Lam Sơn hạ, phải đóng quân ngoài đồng không. Lê Lợi sai Trần Nguyên Hãn chặn đường vận lương, sai Phạm Vấn, Nguyễn Xí tiếp ứng cho Lê Sát cùng sáp đánh, giết 5 vạn quân Minh ở Xương Giang. Hoàng Phúc và hơn 3 vạn quân bị bắt, Thôi Tụ không hàng bị giết.
Mộc Thạnh nghe tin Liễu Thăng thua bèn rút chạy. Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả đuổi theo chém hơn 1 vạn quân, bắt sống 1000 người ngựa.
HỘI THỀ ĐÔNG QUAN
Vương Thông nghe tin hai đạo viện binh bị đánh tan, sợ hãi xin giảng hòa để rút quân. Lê Lợi đồng ý cho giảng hòa để quân Minh rút về nước. Ông cùng Vương Thông tiến hành làm lễ thề trong thành Đông Quan, hẹn đến tháng chạp âm lịch năm Đinh mùi (1427) rút quân về.
Lê Lợi đứng tên Trần Cảo là người đang làm vua trên danh nghĩa, sai sứ dâng biểu cho nhà Minh xin được phong. Vua Minh biết Lê Lợi không có ý tôn Cảo nhưng vì bị thua mãi nên đồng ý phong cho Trần Cảo làm An Nam quốc vương.
Tháng chạp, Vương Thông rút quân về nước. Các tướng muốn giết địch để trả thù tội ác khi cai trị Việt Nam, Lê Lợi không đồng tình vì muốn giữ hòa khí hai nước, cấp thuyền và ngựa cho quân Minh về.
LÊ LỢI LÊN NGÔI VUA
Lê Lợi sai Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngô đại cáo để bá cáo cho thiên hạ biết về việc đánh giặc Minh, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai sau bài thơ Nam quốc sơn hà.
Sau khi quân Minh rút về, trên danh nghĩa Trần Cảo là vua Việt Nam. Theo sử sách, đầu năm 1428, Trần Cảo tự biết mình không có công, lòng người không theo nên bỏ trốn vào châu Ngọc Ma (vùng núi phía Tây), nhưng không thoát, bị bắt mang về và bị ép uống thuốc độc chết. Một số nhà nghiên cứu nghi ngờ việc Cảo phải tự bỏ trốn mà cho rằng các tướng của Lê Lợi được lệnh sát hại Cảo, hoặc Cảo bị đe dọa phải bỏ trốn. Tuy nhiên, suy cho cùng Trần Cảo cũng chỉ là con bài chính trị để Lê Lợi đối phó với nhà Minh trong một giai đoạn cần thiết. Nhà Minh lấy lý do lập con cháu nhà Trần thực chất chỉ là cớ để đánh nhà Hồ.
Ngày 15/4 năm Mậu Thân 1428, tại điện Kính Thiên, Lê Lợi chính thức đăng quang ngôi vua lấy hiệu là “Thuận Thiên thừa vận, Duệ Vân Anh Vũ Đại Vương, lấy lại tên nước Đại Việt và đóng đô ở Đông Đô (tức kinh thành Thăng Long cũ và Hà Nội ngày nay). Với sự kiện này, Lê Thái tổ chính thức dựng lên nhà Hậu Lê.
Hơn 600 năm đã qua, nhưng bài học của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã cho thấy một thiên tài kiệt xuất về quân sự, chính trị, ngoại giao được kết tinh bởi sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc đã làm nên những thắng lợi vang dội. Di sản tư tưởng của Lê Lợi và những nhà lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vẫn còn sống động trong lịch sử dân tộc. Đó là tư tưởng đại đoàn kết toàn dân, lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh, lấy chí nhân và đại nghĩa để thắng hung tàn, cường bạo.
Sự nghiệp đấu tranh giải phóng mà bắt đầu từ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã viết nên bản anh hùng ca vĩ đại và là bài học quý giá cho các thế hệ.
Lễ hội năm nay sẽ được tổ chức tại Khu di tích lịch sử Lam Kinh, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa từ ngày 19 đến 21/9 (tức là từ ngày 20 đến 22/8 âm lịch) gắn liền ba sự kiện quan trọng: kỷ niệm 590 năm khởi nghĩa Lam Sơn, 580 năm đăng quang của vua Lê Thái Tổ và 575 năm ngày mất của Anh hùng dân tộc Lê Lợi – tức Thái Tổ Cao Hoàng đế, người đã có công trong cuộc Bình Ngô, đánh đuổi quân xâm lược, sáng lập vương triều Hậu Lê, một triều đại tồn tại lâu nhất với hơn 360 năm trong lịch sử dân tộc.
Top 14 hội thề đông quan diễn ra vào thời gian nào tổng hợp bởi Thiết Kế Xinh
Bài 19. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418 – 1427) – Củng cố kiến thức
- Tác giả: suretest.vn
- Ngày đăng: 06/18/2022
- Đánh giá: 4.77 (403 vote)
- Tóm tắt: Từ thành Đông Quan, ông bí mật trốn vào Lam Sơn theo Lê Lợi khởi nghĩa và dâng … bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa đã tổ chức hội thề ở Lũng Nhai (Thanh Hóa).
Câu 4Tim hiểu về hội thề Lùng Nhai … | Xem lời giải tại QANDA
- Tác giả: qanda.ai
- Ngày đăng: 01/05/2023
- Đánh giá: 4.55 (384 vote)
- Tóm tắt: Hội thề Đông Quan là tên gọi của một sự kiện diễn ra ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi (tức ngày 10 tháng 12 năm 1427), giữa thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn Lê Lợi …
Hội thề Đông Quan – cách kết thúc chiến tranh đậm tính nhân văn
- Tác giả: lsvn.vn
- Ngày đăng: 12/01/2022
- Đánh giá: 4.32 (285 vote)
- Tóm tắt: Abraham Lincoln luôn kiên trì theo đuổi và hiện thực hóa quyền con người mà Tuyên ngôn Độc lập nước Mỹ đã tuyên bố vào năm 1776. Nhưng mãi 87 …
Trắc nghiệm Lịch Sử 7 Bài 19 có đáp án Chân trời sáng tạo, Cánh
- Tác giả: vietjack.com
- Ngày đăng: 06/20/2022
- Đánh giá: 4.17 (595 vote)
- Tóm tắt: Bạn vào tên bài học hoặc Xem chi tiết để theo dõi bài viết. … Câu 6: Cuộc tiến quân ra Bắc của nghĩa quân Lam Sơn diễn ra vào thời gian nào?
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Với câu hỏi trắc nghiệm Lịch Sử 7 Bài 19 có đáp án sách mới Chân trời sáng tạo, Cánh diều đầy đủ các mức độ nhận biết, thông hiểu, vận dụng sẽ giúp học sinh ôn tập trắc nghiệm Lịch Sử 7 Bài 19. Bạn vào tên bài học hoặc Xem chi tiết để theo dõi bài …
Bài 19 : Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427)
- Tác giả: lib24.vn
- Ngày đăng: 04/03/2022
- Đánh giá: 3.83 (264 vote)
- Tóm tắt: Còn nghĩa quân tạm hòa để có thời gian củng cố lực lượng và tránh cuộc bao vây của … Kế hoạch tiến quân vào Nghệ An của nghĩa quân diễn ra như thế nào ?
- Khớp với kết quả tìm kiếm: – Trên đà thắng đó, nghĩa quân tiến đánh quân giặc ở Khả Lưu (tả ngạn sông Lam thuộc Anh Sơn, Nghệ An). Bằng kế nghi binh, nghĩa quân đánh bại quân Trần Trí ở Khả Lưu, Bồ Ải. Được nhân dân ủng hộ, chỉ trong một thời gian ngắn, phần lớn Nghệ An được …
Câu 21: Chiến thắng Xương Giang, nghĩa quân Lam Sơn đã tiêu diệt bao nhiêu tên địch? A. 15 vạn B. Gần 5 vạn C. Gần 10 vạn D. 20 vạn Câu 22: Chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống câu sau đây: Nghe tin hai đạo viện binh Liễu Thăng, Mộc Thanh bị tiêu diệt hoàn toàn, Vương Thông ở …. (1)… vô cùng khiếp đảm, vội vàng xin hòa và chấp nhận ….(2)…. Để được an toàn rút quân về nước. A. 1) Đông Quan 2) Đầu hàng không điều kiện B. 1) Chi Lăng 2) thua đau C. 1) Đông Quan 2) Mở hội thề Đông Quan D. 1) Xương Giang Câu 23: Hội thề Đông Quan diễn ra vào thời gian nào? A. Ngày 10 tháng 12 năm 1427 B. Ngày 12 tháng 10 năm 1427 C. Ngày 3 tháng 1 năm 1428 D. Ngày 1 tháng 3 năm 1428 Câu 24: Nguyên nhân nào dưới đây là nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn? A. Lòng yêu nước của nhân dân ta được phát huy cao độ B. Bộ chỉ huy khởi nghĩa là những người tài giỏi, mưu lược cao, tiêu biểu là Lê Lợi và Nguyễn Trãi C. Nghĩa quân Lam Sơn có tinh thần kĩ thuật cao và chiến đấu dũng cảm D. Sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân cho cuộc khởi nghĩa Câu 25: Ý nào dưới đây không phải nhiệm vụ của nghĩa quân Lam Sơn trong cuộc tấn công ra Bắc? A. Tiến sâu vào vũng chiếm đóng của địch, giải phóng đất đai. B. Thành lập chính quyền mới. C. Quét sạch quân Minh đang chiếm đóng Đông Quan. D. Chặn đường tiếp viện của quân Minh từ Trung Quốc sang. Câu 26: Cuộc tiến quân ra Bắc của nghĩa quân Lam Sơn diễn ra vào thời gian nào? A. Tháng 8 năm 1425. B. Tháng 9 năm 1426. C. Tháng 10 năm 1426. D. Tháng 11 năm 1426. Câu 27: Hai trận đánh lớn nhất trong khởi nghĩa Lam Sơn là A. trận Hạ Hồi và trận Ngọc Hồi – Đống Đa. B. trận Rạch Gầm – Xoài Mút và trận Bạch Đằng. C. trận Tây Kết và trận Đông Bộ Đầu. D. trận Tốt Động – Chúc Động và trận Chi Lăng – Xương Giang. Câu 28: Sau thất bại ở Chi Lăng – Xương Giang, tình hình quân Minh ở Đông Quan như thế nào? A. Vô cùng khiếp đảm, vội vàng xin hòa và chấp nhận mở hội thề Đông Quan rút quân về nước. B. Bỏ vũ khí ra hàng. C. Liều chết phá vòng vây rút chạy về nước. D. Rơi vào thế bị động, liên lạc về nước cầu cứu viện binh. Câu 29: Ý nào dưới đây không phải nguyên nhân thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn? A. Nhân dân ta có tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất, đoàn kết chiến đấu. B. Quân Minh gặp khó khăn trong nước phải tạm dừng cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt. C. Có đường lối chiến lược, chiến thuật đúng đắn, bộ chỉ huy tài giỏi. D. Biết dựa vào nhân dân để phát triển từ cuộc khởi nghĩa thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Câu 30: Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi có ý nghĩa lịch sử như thế nào? A. Kết thúc chiến tranh và buộc nhà Minh bồi thường chiến tranh cho nước ta. B. Kết thúc 20 năm đô hộ tàn bạo của phong kiến nhà Minh, mở ra thời kì phát triển của đất nước. C. Mở ra thời kì phát triển mới của đất nước với việc nhà Minh thần phục nước ta. D. Đưa nước ta trở thành một cường quốc trong khu vực. Câu 31: Nét nổi bật của tình hình nghĩa quân Lam Sơn trong giai đoạn 1418 – 1423 là A. Liên tục bị quân Minh vây hãm và phải rút lui. B. Mở rộng địa bàn hoạt động vào phía Nam. C. Tiến quân ra Bắc và giành nhiều thắng lợi. D. Tổ chức các trận quyết chiến chiến lược nhưng không thành công. Câu 32: Ai là người đã đưa ra ý tưởng chuyển địa bàn hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn từ Thanh Hóa vào Nghệ An? A. Lê Lợi. B. Nguyễn Chích. C. Nguyễn Trãi. D. Trần Nguyên Hãn. Câu 33: Ai là người đã cải trang làm Lê Lợi, phá vòng vây của quân Minh cứu chúa? A. Lê Lai B. Lê Ngân C. Trần Nguyên Hãn D. Lê Sát Câu 34: Chiến thắng nào đã đè bẹp ý chí xâm lược của quân Minh, buộc Vương Thông phải giảng hòa, kết thúc chiến tranh? A. Tân Bình, Thuận Hóa B. Tốt Động, Chúc Động C. Chi Lăng- Xương Giang D. Ngọc Hồi- Đống Đa Câu 35: Điểm tập kích đầu tiên của nghĩa quân Lam Sơn sau khi chuyển căn cứ từ Thanh Hóa vào Nghệ An là A. Thành Trà Lân. B. Thành Nghệ An. C. Diễn Châu. D. đồn Đa Căng
- Tác giả: hoidap247.com
- Ngày đăng: 10/16/2022
- Đánh giá: 3.67 (557 vote)
- Tóm tắt: 1) Xương Giang Câu 23: Hội thề Đông Quan diễn ra vào thời gian nào? A. Ngày 10 tháng 12 năm 1427 B. Ngày 12 tháng 10 năm 1427 C. Ngày 3 tháng 1 …
Ai là người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn?
- Tác giả: tailieumoi.vn
- Ngày đăng: 02/07/2023
- Đánh giá: 3.45 (380 vote)
- Tóm tắt: Hội thề Đông Quan giữa đại diện nghĩa quân Lam Sơn và đại diện quân Minh diễn ra vào thời gian nào? Xem đáp án » 11/07/2022 111 …
Lịch sử 7 Bài 19: Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418 – 1427)
- Tác giả: c1thule-bd.edu.vn
- Ngày đăng: 09/27/2022
- Đánh giá: 3.36 (447 vote)
- Tóm tắt: Trắc nghiệm; 1.2 Câu 1: Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn diễn ra vào thời gian nào? … Vương Thông xin hòa, chấp nhận mở hội thề Đông quan.
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Quân Minh đã đánh bại nhà Hồ và đặt ách thống trị lên đất nước ta. Nhân dân nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi, ngay sau khi cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi và Trần Qúy Khoáng bị dập tắt, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã bùng lên mạnh mẽ, trước hết là ở vùng …
Khởi nghĩa Lam Sơn (1418 – 1427)
- Tác giả: nguoikesu.com
- Ngày đăng: 03/31/2022
- Đánh giá: 3.18 (255 vote)
- Tóm tắt: Kết quả, Thắng lợi hoàn toàn của nghĩa quân Lam Sơn. Hội thề Đông Quan, … Quân khởi nghĩa bắt đầu giành thế thắng khi Lê Lợi tiến quân ra đất Nghệ An vào …
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Khởi nghĩa Lam Sơn gồm 3 giai đoạn lớn: hoạt động ở vùng núi Thanh Hóa (1418-1423), tiến vào phía nam (1424-1425) và giải phóng Đông Quan (1426-1427). Trong giai đoạn đầu, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn gặp rất nhiều khó khăn, thường phải hứng chịu các …
Hội thề Đông Quan – Báo Bình Phước
- Tác giả: baobinhphuoc.com.vn
- Ngày đăng: 12/15/2022
- Đánh giá: 2.8 (100 vote)
- Tóm tắt: Lê Lợi đồng ý và sau đó đã diễn ra Hội thề Đông Quan vào ngày 10-12-1427. … Án sát xứ là Dương Thời Tập, Thiên sự là Quách Hội; …
Khởi nghĩa Lam Sơn – Dấu son rực rỡ trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc: Bài 1 – Biểu tượng của sức mạnh Nhân dân và tinh thần nhân nghĩa
- Tác giả: baothanhhoa.vn
- Ngày đăng: 11/05/2022
- Đánh giá: 2.88 (139 vote)
- Tóm tắt: Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nổ ra vào mùa xuân năm Mậu Tuất (1418) ở núi … Với dấu mốc là Hội thề Đông Quan, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trải qua …
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Sự tàn bạo của bè lũ xâm lược đã thôi thúc các cuộc nổi dậy đấu tranh giành độc lập dân tộc. Ngoài những cuộc khởi nghĩa do quý tộc nhà Trần lãnh đạo, điển hình nhất là Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng; từ cuối năm 1407, nhiều cuộc khởi nghĩa cũng đã nổ …
Thử nhận diện Chiến dịch giải phóng thành Đông Quan năm 1427
- Tác giả: sknc.qdnd.vn
- Ngày đăng: 11/11/2022
- Đánh giá: 2.74 (67 vote)
- Tóm tắt: Đó là: Chiến dịch giải phóng thành Đông Quan, đã diễn ra cách năm 2017 này … Đến cuối năm 1426 thì lâm vào thế trận ngày càng bị khó khăn, …
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Trong các tháng 6, 7 và 8-1427, những cuộc đụng độ vẫn tiếp diễn. Tại bãi Cơ Xá (dọc bờ sông Hồng, thuộc quận Hoàn Kiếm) nghĩa quân vừa đánh địch từ trong thành ra cướp bóc, vừa đắp dựng thêm chiến lũy, chặn giặc ở vành đai bao vây mạn Đông. Đến …
vì sao có hội thề đông quan?diễn ra vào thời gian nào?tại đâu? -giúp e đi mn e sắp thi gồi:<
- Tác giả: mtrend.vn
- Ngày đăng: 07/16/2022
- Đánh giá: 2.49 (103 vote)
- Tóm tắt: Hội thề Đông Quan diễn ra ngày 10 tháng 12 năm 1427, giữa thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn là Lê Lợi và chủ tướng quân Minh là Vương Thông, kết thúc cuộc khởi …
Lời thề Đông Quan – Trang chủ – Làng Việt
- Tác giả: langvietonline.vn
- Ngày đăng: 04/09/2022
- Đánh giá: 2.49 (114 vote)
- Tóm tắt: Vào tháng 9 (âm lịch) năm 1427, viện binh của địch gồm khoảng 10 vạn … Sau câu đầu ghi phần thời gian diễn ra Hội thề ở Đông Quan là danh …
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã thực hiện được một việc hiếm thấy trong lịch sử chiến tranh giữ nước. Chiến thắng không có thương vong và đặc biệt nước Việt ta đã lấy lại được chủ quyền, từ đó quan hệ bang giao với chính quyền phương Bắc được giữ vững, …